1. Chiến thắng 30/4 - Sản phẩm của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Hội nghị Bộ Chính trị đã họp, phân tích, đánh giá chính xác sự phát triển của thời cơ, đề ra phương hướng hành động đúng đắn, thể hiện quyết tâm chiến lược cao giải phóng hoàn toàn miền nam. Hội nghị trên có ý nghĩa lịch sử trọng đại, thật sự là ngọn đuốc soi đường dẫn đến Đại thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta ở miền nam đã diễn ra gần hai tháng vào mùa Xuân 1975 với ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đến giai đoạn chót càng thêm quyết liệt, với tốc độ nhanh "một ngày bằng 20 năm". Ngày 30-4, quân dân ta kiên quyết đẩy mạnh cuộc tiến công theo kế hoạch đã định, với khí thế dũng mãnh, phi thường, giải phóng và chiếm lĩnh thành phố Sài Gòn, tước vũ khí, giải tán chính quyền các cấp của đối phương, đập tan mọi sự chống cự của chúng. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc lập, báo hiệu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng thời cũng cắm một mốc son chói lọi cho cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc chiến tranhgiải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta, một cuộc chiến tranh đã kéo dài hơn 20 năm (từ tháng 7-1954 đến tháng 5-1975), dài hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào trong lịch sử dân tộc, và phải chống lại một đế quốc lớn mạnh nhất lúc đó.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta, một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu hiện sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Thắng lợi của nhân dân ta và thất bại của đế quốc Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến nội tình nước Mỹ và cục diện thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, các dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta thắng lợi do nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan, được vận dụng một cách sát hợp và tài tình tạo nên. Trước hết là sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn, sáng tạo. Đó là tiến hành đồng thời cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc. Với đường lối đó, cách mạng nước ta đã kết hợp được sức mạnh chiến đấu của tiền tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân, toàn quân vào cuộc chiến đấu cứu nước, đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên một trình độ mới những phẩm chất cách mạng của Đảng và dân tộc. Đường lối đó cũng đã kết hợp được cuộc chiến đấu cứu nước của nhân dân ta với cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng, dân chủ, hòa bình trên thế giới. Đường lối đó đồng thời đã đem lại cho cách mạng Việt Nam sức tiến công mạnh mẽ. Đó là cơ sở làm nảy sinh những phương pháp cách mạng vừa kiên quyết, triệt để, vừa đầy tính sáng tạo, khoa học, cũng như những hình thức đấu tranh linh hoạt, phong phú, muôn mầu, muôn vẻ.
Nhưng có một điều rõ ràng là tất cả những yêu cầu đó chỉ có thể thực hiện một cách tốt đẹp và phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở một chủ nghĩa yêu nước vững bền và thâm hậu. Và cũng rõ ràng là, chính trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài vô cùng oanh liệt của dân tộc chống lại những kẻ thù hung hãn và thâm độc bất cứ chúng từ đâu tới, dân tộc ta cũng đã tự rèn luyện, bồi dưỡng cho mình một truyền thống yêu nước cao đẹp, đi từ thấp lên cao, lúc đầu mới là một ý chí, một tinh thần yêu nước, nhưng rồi trải qua lò lửa đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, đã phát triển lên thành một chủ nghĩa yêu nước chân chính và hùng mạnh.
Tinh thần yêu nước phát triển lên một trình độ cao sẽ tạo ra các điều kiện cho sự hình thành và định hình chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, một chủ nghĩa dân tộc với tất cả ý nghĩa tích cực của nó.
Truyền thống yêu nước nồng nàn, chống ngoại xâm kiên cường của dân tộc ta trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước đã đặt nền tảng vững bền trên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã được phát huy cao độ, đã đưa tới toàn thắng 30-4-1975. Đó là một thực tế hào hùng và sáng ngời chân lý buộc chính kẻ thù dân tộc cuối cùng cũng phải cay đắng chấp nhận, và rút ra bài học Việt Nam là "đã đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của nó".
2. Lịch sử và ý nghĩa của ngày Quốc tế lao động 1/5.
Ngày Quốc tế lao động, ngày hội của những người lao động toàn thế giới, được tổ chức vào 1-5 hàng năm.
Trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động, vấn đề thời gian lao động có ý nghĩa quan trọng. Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội I Quốc tế I họp tại Giơ-ne-vơ tháng 9-1866 vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ trước mắt. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh – nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Phong trào đòi làm việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827 đi đôi với sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Tháng 4-1884 tại thành phố công nghiệp lớn Si-ca-gô, Đại hội Liên đoàn lao động Mỹ thông qua Nghị quyết nêu rõ: từ ngày 1-5-1886 ngày lao động của tất cả công nhân sẽ là 8 giờ.

Ngày 1-5-1886, công nhân toàn thành phố Si-ca-gô tiến hành bãi công, 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mittinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ học tập”, cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cùng ngày đó, các Trung tâm công nghiệp ở nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở một số nơi như Niu-Oóc, Pi-Xbớc, Ban-ti-mo, Oa-sinh-tơn… có khoảng 12 vạn rưỡi công nhân giành được quyền làm việc 8 giờ một ngày, khẩu hiệu “Ngày làm việc 8 giờ” trở thành tiếng nói chung của toàn thể giai cấp công nhân. Ở nhiều nơi cảnh sát đã đàn áp các cuộc biểu tình, đặc biệt ở thành phố Si-ca-gô cảnh sát đã tàn sát đẫm máu cuộc đấu tranh, làm hơn một trăm người chết, nhiều thủ lĩnh Công đoàn bị bắt và bị kết án tử hình.
Mặc dù cuộc bãi công ở Si-ca-gô bị trấn áp, nhưng khí phách anh hùng của công nhân và yêu cầu thiết thực của cuộc đấu tranh đã gây chấn động lớn trong giai cấp công nhân thế giới; công nhân nhiều nước đã đồng tình và hưởng ứng yêu sách của công nhân Si-ca-gô. Vì thế tại Đại hội thành lập Quốc tế II do Ph.Ăng-ghen lãnh đạo họp ngày 14-7-1889, Đại biểu của giai cấp công nhân thông qua Nghị quyết lấy ngày 1-5 hàng năm làm ngày đoàn kết đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Thực hiện Nghị quyết trên, năm 1890 lần đầu tiên ngày Quốc tế lao động 1-5 được tổ chức trên quy mô thế giới.
Ngày 1-5 ở các nước xã hội chủ nghĩa, đã coi là ngày mừng thắng lợi đã đạt được, nêu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới và biểu lộ tình đoàn kết với những người lao động các nước khác. Ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, ngày 1-5 là ngày biểu dương cho lực lượng lao động, đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Ở Việt Nam, sau khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam cũng lấy ngày 1-5 là ngày đoàn kết đấu tranh của mình. Cuộc đấu tranh ngày 1-5-1930 là một bước ngoặt của cao trào cách mạng 1930 – 1931, từ thành thị đến nông thôn, từ Bắc đến Nam nhiều nơi treo cờ Đảng, tổ chức mittinh, tuần hành thị uy, lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng dẫn vận động của Công hội, công nhân ta biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5 đấu tranh đòi quyền lợi, tỏ tình đoàn kết với công nhân lao động thế giới.
Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám việc kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.